Phong trào đấu tranh chống cướp đoạt ruộng đất, sưu thuế tô tức nặng nề của nông dân còn mang tính tự phát và bước đầu có sự lãnh đạo của các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam hoặc Việt Nam Quốc dân Đảng. Trong đấu tranh, giai cấp nông dân được tôi luyện trưởng thành và xuất hiện những người con ưu tú, hình thành nhiều tổ chức như: Phường lợp nhà, Phường hiếu hỉ, Phường tương tế... để bảo vệ quyền lợi của nông dân. Cuối thập kỷ 20 của thế kỷ XX, Nông hội đỏ đã xuất hiện ở một số địa phương.
Đầu năm 1930, Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu ra những vấn đề cơ bản đối với giai cấp nông dân: “Đảng phải thu phục cho được đại đa số dân cày nghèo làm cách mạng thổ địa đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến''; Đồng thời, Đảng nhấn mạnh ''Nông dân là lực lượng to lớn của cách mạng". Vì vậy, phải tập hợp nông dân vào một tổ chức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, đấu tranh giành độc lập tự do và thực hiện cách mạng ruộng đất.
Hội nghị Trung ương Đảng tháng 10-1930, đã thông qua Nghị quyết về việc thành lập Tổng Nông hội Đông Dương (tên gọi đầu tiên của Hội Nông dân Việt Nam ngày nay). Việc thành lập Tổng Nông hội Đông Dương đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử giai cấp nông dân Việt Nam, sự trưởng thành và lớn mạnh về của phong trào nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931, dưới sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương, các tổ chức Nông hội cấp cơ sở vẫn được hình thành ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, tại Bình Thuận, vào đầu năm 1930, Dương Chước - một đảng viên cộng sản từ Khánh Hòa đến xây dựng cơ sở, phát triển đảng viên ở làng Đại Nẫm, Phú Hội thuộc phủ Hàm Thuận. Sau một thời gian tuyên truyền các đồng chí Ngô Đức Tốn vào dạy học ở làng Tam Tân, Hàm Tân, Nguyễn Tỵ (nông dân), Phan Xích (làm ở đề pô xe lửa Mương Mán) được kết nạp vào Đảng. Theo hướng dẫn của Dương Chước, Giáo Tốn (Ngô Đức Tốn) đã tập hợp số thanh niên, nông dân, ngư dân, công chức trong làng Tam Tân, nơi anh dạy học thành lập một tổ chức “Phản đế đồng minh hội”, đến cuối năm 1930, chi bộ Tam Tân hình thành có 7 đảng viên do đồng chí Tốn làm Bí thư. Tổ chức Phản đế đồng minh hội đến đầu năm 1931 có tới 30 người. Cùng thời gian trên, đồng chí Hồ Quang Cảnh, một đảng viên cộng sản từ Sài Gòn về móc nối với một đảng viên người xứ Nghệ cũng từ Sài Gòn về xây dựng phong trào cách mạng ở Bình Thuận. Sau một thời gian hoạt động dưới hình thức tổ chức Nông Hội, năm 1931, các đồng chí Nguyễn Tương, Nguyễn Gia Tú, Trần Hoành… được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Những đảng viên được kết nạp những năm đầu khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là những hạt nhân của việc hình thành, phát triển cơ sở Đảng, đảng viên ngày càng lớn mạnh và lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược tại Bình Thuận.
Ngày 20 tháng 3 năm 1931, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị về vấn đề chỉnh đốn Nông hội đỏ, trong đó khẳng định vai trò to lớn của Nông hội trong cách mạng, giai cấp nông dân “là một lực lượng chính của cách mạng”. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Hai, tháng 3 năm 1931 nhấn mạnh: Cần phải đẩy mạnh việc tổ chức Nông hội làng, tuyên truyền sâu rộng chủ trương của Đảng, đồng thời chỉ rõ: trong điều kiện địch khủng bố trắng, nông dân cùng các tầng lớp nhân dân đoàn kết đấu tranh, giương cao khẩu hiệu: chống sưu thuế, địa tô, chống nạn thất nghiệp, chống khủng bố trắng, chống cải lương lừa dối, chống chiến tranh…
Thực hiện Nghị quyết Trung ương Hai, các tổ chức Nông hội được củng cố và trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân. Tháng 6 năm 1932 Trung ương Đảng đã khởi theo Chương trình hành động nhằm khôi phục nhanh chóng phong trào cách mạng, đồng thời đề ra phương hướng đấu tranh và những biện pháp cụ thể phù hợp với tình hình mới. Chủ trương của Đảng nêu rõ: phải tận dụng mọi khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp để tổ chức đấu tranh và phát triển tổ chức bí mật (Nông hội). Trên cơ sở Chương trình hành động của Đảng, Chương trình hành động của Nông hội ra đời.
Tháng 3 năm 1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp, đề ra đường lối chính trị và phương pháp tổ chức mới, tên của các tổ chức quần chúng đều được thay đổi cho phù hợp với tình hình mới. Quyết định lấy tên Nông hội thay Nông hội đỏ. Nông dân có tổ chức chính là Nông hội, có thể tổ chức nhiều hội (nhưng nội dung là Nông hội); Hội tương tế, ái hữu, hợp tác xã, hội cấy, hội gặt, hội hiếu hỉ, hội góp họ, phường đi săn, hội chèo, nhóm học quốc ngữ...đã thu hút đông đảo nông dân đấu tranh giành quyền lợi của giai cấp mình. Chủ trương đúng đắn và kịp thời của Đảng đã giúp cho Nông hội khắp nơi trong nước phát huy vai trò của mình trong việc tập hợp, lãnh đạo nông dân hợp lực với công nhân và nhân dân lao động đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tám, tháng 5 năm 1941 khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc, việt gian chia cho dân cày nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức; thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh); Mặt trận các đoàn thể lấy tên là Cứu quốc.
Năm 1941 - 1942, dưới sự lãnh đạo của Nông hội, nông dân đã đấu tranh chống thu thóc, chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu...Từ năm 1943, với khẩu hiệu ''Đoàn kết toàn dân đánh đuổi Nhật - Pháp''. Nông hội đã đưa nông dân tham gia vào các phong trào sôi nổi với những hình thức như biểu tình chống Nhật, vũ trang đánh Nhật…Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), phong trào ''Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói'' đã lôi cuốn hàng triệu nông dân vùng lên đấu tranh trực diện với kẻ thù. Qua phong trào đấu tranh các tổ chức cứu quốc của nông dân càng phát triển mạnh mẽ, góp sức vào làn sóng khởi nghĩa từng phần đang nổi lên cuồn cuộn trong cả nước, làm tan rã từng mảng chính quyền cơ sở của phát xít, tay sai, tạo nên khí thế cách mạng sôi sục, đưa cả nước hừng hực bước vào cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 thành công.
Thành công vĩ đại của Cách mạng tháng Tám là một minh chứng cho tinh thần, khả năng và vai trò cách mạng to lớn của nông dân với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đồng thời, là một thắng lợi của sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng đối với các tổ chức của giai cấp nông dân, thể hiện sự gắn bó giữa Đảng với nông dân, nông dân với Đảng.
Trong điều kiện chiến tranh ngày càng lan rộng với mức độ gay go ác liệt hơn, nhiệm vụ kháng chiến càng đòi hỏi phải động viên toàn thể nông dân tham gia trên tất cả các mặt trận. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thành lập Ban Nông vận Trung ương, kiện toàn tổ chức ở cấp Trung ương.
Ngày 06 tháng 8 năm 1949, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 02 – NQ/TW về việc thành lập Ban Nông vận Trung ương. Với nhiệm vụ của Ban Nông vận Trung ương là vận động nông dân: tăng gia sản xuất, tự cấp tự túc, nuôi dưỡng bộ đội, xây dựng hợp tác xã, hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức, đào tạo cán bộ và thanh toán nạn mù chữ. Nông dân trong các vùng địch tạm chiếm đã tiến hành nhiều hình thức đấu tranh như bám ruộng đất, làng xóm để sản xuất; lên án hành động bắn phá, đốt hoa màu của địch; tranh thủ sản xuất, thu hoạch và cất dấu lương thực, thực phẩm ở vùng địch hậu trong cả nước để đảm bảo được nhu cầu của nhân dân mà còn đóng góp cho Nhà nước, phục vụ sự nghiệp kháng chiến. Phong trào cách mạng của giai cấp nông dân đã đóng góp phần quan trọng vào thắng lợi của các chiến dịch. Chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ và thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương mở ra một thời kỳ mới của cách mạng Việt Nam. Hoà bình được lập lại ở Đông Dương, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam được đế quốc Mỹ giúp sức, chính quyền Ngô Đình Diệm đã trắng trợn vi phạm Hiệp định Giơnevơ và tập trung sức củng cố bộ máy thống trị phản động. đẩy mạnh việc xây dựng quân đội ngụy làm lực lượng xung kích chống cộng và đàn áp nhân dân. Thực hiện chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng và Chính phủ, dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng ở nông thôn miền Nam, Nông hội vừa tích cực tổ chức, vận động nông dân chuẩn bị đấu tranh lâu dài, vừa khẩn trương tranh thủ thời gian trước khi bàn giao các địa bàn cho đối phương để củng cố sản xuất, ổn định đời sống. Nam Bộ và khu V tiếp tục đẩy mạnh việc chia cấp ruộng đất cho nông thôn nâng tổng số ruộng đất chia cho đồng bào lên 750.000 ha cho 1.299.000 hộ nông dân.
Phong trào đấu tranh chính trị của nông dân miền Nam diễn ra hết sức mạnh mẽ, quyết liệt. Các làng, xã chiến đấu được hình thành và phát triển. Ngày 20/12/1960, Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam đã họp tại căn cứ Tây Ninh, tuyên bố thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Ngày 21/4/1961, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức được thành lập và là thành viên của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự ra đời của Hội là một mốc lịch sử đánh dấu sự phát triển của tổ chức nông dân, mà trên thực tế hàng ngàn cơ sở Nông hội cứu quốc ở các khu, tỉnh, huyện, xã đã được phục hồi trong thời gian Đồng khởi. Tháng 1 năm 1969, Hội Nông dân giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành Đại hội nhằm tổng kết phong trào đấu tranh của nông dân trong tám năm, đồng thời quán triệt yêu cầu và nhiệm vụ mới của nông dân trong đấu tranh chống kế hoạch ''Bình định cấp tốc'' của địch. Đại hội đã biểu dương những thành tích to lớn của nông dân miền Nam trong việc phát triển thế trận chiến tranh du kích, đánh địch, bảo vệ vùng giải phóng, vùng căn cứ và là lực lượng chủ yếu trên mặt trận sản xuất, bảo đảm đời sống và cung cấp hậu cần cho bộ đội. Hội tập trung vận động, tuyên truyền nông dân thực hiện đúng đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng.
Thực hiện chủ trương của Đảng, lấy địa bàn nông thôn làm hướng tiến công chính, đánh mạnh vào kế hoạch “Bình định cấp tốc” của địch, giữ đất, giành dân, Hội Nông dân đã chủ động giáo dục hội viên khắc phục tư tưởng nôn nóng, thoát ly thực tế muốn thắng nhanh, đồng thời vạch rõ nhiệm vụ quan trọng nhất ở nông thôn là phải ''giành dân, giành đất, phát triển thế và lực của ta". Nông dân liên tục nổi dậy phá rã, phá banh nhiều khu dồn dân, phá thế kìm kẹp, giành quyền làm chủ trên nhiều địa bàn quan trọng. Vùng giải phóng đã mở rộng tới sát Sài Gòn. Ở đồng bằng Nam Bộ, nông dân nổi dậy mở thêm nhiều vùng, nhiều lõm giải phóng, nối các vùng giải phóng thành thế liên hoàn liên xã, liên huyện.
Thắng lợi của phong trào nông dân nổi dậy và cuộc tiến công chiến lược Xuân - Hè 1972 đã làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh ở miền Nam và tiến tới "Tổng tấn công" mùa Xuân năm 1975 giành trọn vẹn thắng lợi, đất nước thống nhất, Nam - Bắc sum họp một nhà. Phát huy vai trò của tổ chức Hội Nông dân trong sự nghiệp cách mạng và tiến tới Đại hội đại biểu nông dân toàn quốc. Ngày 25 tháng 6 năm 1977, Ban Bí thư ra Thông báo số 16 – TB/TW về việc thành lập Ban Trù bị Đại hội đại biểu Nông dân tập thể Trung ương.
Ngày 27-9-1979, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 78-CT/TƯ về việc tổ chức Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam. Để phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và đoàn kết nông dân lao động, đưa nông thôn nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, Bộ Chính trị đã quyết định thành lập tổ chức thống nhất của nông dân lao động trong cả nước, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở, lấy tên là Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam được thành lập có ý nghĩa chính trị to lớn. Sau nhiều năm không có tổ chức hội (ở miền Bắc) nay giai cấp nông dân cả nước có tổ chức thống nhất từ Trung ương xuống cơ sở.
Tổ chức Hội Nông dân cũng ngày càng được quan tâm hơn, ngày 29 tháng 9 năm 1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 116 – CT/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam. Ngày 01-3-1988, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Quyết định số 42-QĐ/TƯ về việc đổi tên Hội Liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam thành Hội Nông dân Việt Nam. Ngày 17 tháng 01 năm 1991, Bộ Chính trị đã đồng ý lấy ngày 14 tháng 10 năm 1930 làm Ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam.
Đến nay, Hội Nông dân Việt Nam đã trải qua 07 kỳ Đại hội, Hội Nông dân tỉnh Bình Thuận trải qua 8 kỳ đại hội.
Qua các kỳ Đại hội, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo sâu sát của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Hội Nông dân tỉnh Bình Thuận không ngừng lớn mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Sau khi chia tách tỉnh tháng 12/1992 toàn tỉnh có 466 chi hội, 1.594 tổ hội, có 73.607 hội viên; đã phân loại 106 cơ sở của 9/9 huyện, thị; số cơ sở khá chiếm gần 1/3, đến năm 1997 đã nâng lên 75.980 hội viên, qua phân loại có 60 cơ sở khá, 19 cơ sở yếu kém. Đến năm 2000 toàn tỉnh có 765 chi hội, 2.609 tổ hội, 80.303 hội viên; các cấp Hội Nông dân trong tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức Hội, vận động nông dân vào Hội, nâng tổng số hội viên hiện nay 152.834 hội viên, chiếm 108% so tổng số hộ nông dân toàn tỉnh, chiếm khoảng 67% dân số; có 10/10 huyện, thị, thành Hội, 124 xã phường thị, trấn; có 727chi hội/691 thôn, khu phố; có 3.335 tổ hội; qua phân loại có 118/127 cơ sở vững mạnh, 09/127 cơ sở Hội khá. Tổng số lực lượng cốt cán chính trị là 7.307 cốt cán, chiếm tỷ lệ 4,75% so với tổng hội viên (năm 2009 có 4.666 cốt cán chính trị, tăng 2.641 cốt cán, tỷ lệ 56,6%), trong đó có 705 cốt cán chính trị là dân tộc chiếm 9,64% so với cốt cán chính trị, có 1.798 cốt cán chính trị tôn giáo chiếm 24,60% so với cốt cán; trực tiếp giao nhiệm vụ 1.047 cốt cán chính trị; mỗi năm các cấp Hội giới thiệu từ 200-300 cán bộ, hội viên nông dân ưu tú cho Đảng xem xét và mỗi năm cấp uỷ Đảng kết nạp được từ 100- 150 hội viên, nâng tổng số hội viên là đảng viên đến nay là 4.466 người (tăng 831 đảng viên so với năm 2009 tăng 122%, chiếm tỷ lệ 2,90% trên tổng số hội viên), là nguồn bổ sung, quy hoạch cán bộ cho Đảng, chính quyền và Hội các cấp.
Hội viên, nông dân trong tỉnh hiện nay có kinh nghiệm, chịu khó tìm hiểu, học tập, ứng dụng khoa học, công nghệ mới vào sản xuất; luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đạt được trong thời gian qua. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, cải thiện đời sống nông dân đã tạo cơ chế, chính sách để Hội Nông dân Việt Nam tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn và động viên đông đảo cán bộ, hội viên, nông dân quyết tâm thực hiện, dân chủ cơ sở được phát huy. Tình hình sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần của hội viên, nông dân ổn định, có khá hơn. Tỷ lệ hộ nghèo từ 9,2% (2008) đến nay giảm còn 2,67%, số hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm từ 1-1,2%. Đời sống vật chất, tinh thần của người nghèo, người cận nghèo được cải thiện, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị; điều kiện ăn ở, đi lại, học hành, chăm sóc sức khoẻ… được quan tâm, trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá được nâng lên. Song, bên cạnh thuận lợi vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức do tác động lạm phát kinh tế, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi... cán bộ, hội viên, nông dân, băn khoăn, lo lắng giá cả các mặt hàng phục vụ cho đầu tư sản xuất liên tục tăng cao, làm tăng chi phí sản xuất; giá các loại hàng nông, hải sản do nông dân sản xuất ra tuy có tăng nhưng không ổn định, đôi lúc diễn biến bất thường như giá thanh long, lúa và hải sản, cao su... Việc khai thác tài nguyên trái phép, ô nhiễm môi trường chưa được giải quyết tốt, nạn trộm cắp tài sản, giết người, tín dụng đen, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội giảm không đáng kể.
Song, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Tỉnh uỷ, sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền, các ngành, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể; các cấp Hội Nông dân trong tỉnh tăng cường đổi mới nội dung, phương thức hoạt động phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và tình hình thực tiễn tại địa phương đặc biệt triển khai, thực hiện Đề án: “Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Hội Nông dân Việt Nam trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020” theo Kết luận số 61 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quyết định số 673 của Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị số 03 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy; Kế hoạch số 2941/KH-UBND của UBND tỉnh; Các cấp Hội Nông dân trong tỉnh đã năng động, sáng tạo, tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở; tăng cường tuyên truyền vận động cán bộ, hội viên nông dân gắn với tư vấn, hướng dẫn, hỗ trợ, dịch vụ và dạy nghề cho nông dân; phát huy tinh thần đoàn kết, ra sức khắc phục khó khăn, nỗ lực phấn đấu đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước và 3 phong trào lớn của Hội, đã khích lệ, động viên nông dân đổi mới nếp nghĩ, cách làm, khai thác hiệu quả tiềm năng nội lực, nêu cao tinh thần đoàn kết hợp tác, lao động sáng tạo; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, sản xuất nông, ngư, diêm, lâm nghiệp và dịch vụ phục vụ sản xuất trong tỉnh phát triển toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu ngày càng tăng; nhờ nguồn vốn ủy thác của Ngân hàng chính sách xã hội, vốn tín chấp Ngân hàng nông nghiệp &PTNT, vốn quỹ hỗ trợ nông dân và các nguồn vốn khác trên 60 tỷ đồng đã giúp hàng ngàn lượt hộ nông dân đã mở rộng quy mô sản xuất, cung ứng các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, các loại cây con giống, bóng đèn…chăm sóc cây trồng, vật nuôi, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động nông thôn, có nhiều hộ từ khó khăn vươn lên, thoát được nghèo, làm giàu cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, góp phần quan trọng phát triển kinh tế- xã hội tỉnh nhà, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; xây dựng giai cấp nông dân và tổ chức Hội vững mạnh. Hàng năm, có 100% cơ sở Hội tổ chức phát động phong trào, 10 năm qua (từ năm 2009 – 2019) số hộ sản xuất kinh doanh giỏi tăng 42.307 hộ. Có 05 nông dân tiêu biểu xuất sắc toàn quốc; 02 nhà Khoa học của Nhà nông; 12 sản phẩm nông nghiệp được công nhận sản phẩm tiêu biểu toàn quốc. Hộ sản xuất - kinh doanh giỏi mức thu nhập bình quân hàng trăm triệu đồng, một số ít hộ có thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm. Phong trào thi đua “Chung sức, chung lòng xây dựng nông thôn mới” được hưởng ứng bằng các phần việc, công trình cụ thể, gắn thực hiện quy chế dân chủ cơ sở với các phong trào thi đua yêu nước khác như: “Dân vận khéo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Ánh sáng an ninh”…Nhiều hội viên, nông dân đã tiên phong hiến đất, hiến ngày công để làm đường giao thông, kênh mương nội đồng… Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, gắn với thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở được các cấp Hội tích cực tham gia thực hiện, bình quân hàng năm có 152.000 hộ nông dân đăng ký xây dựng gia đình văn hóa, 150.000 hộ đạt gia đình văn hóa (tăng 80,28% so với năm 2009); các cấp Hội tích cực vận động con em hội viên, nông dân chấp hành tốt việc khám tuyển và thi hành nghĩa vụ quân sự, giao quân hàng năm đạt chỉ tiêu trên giao; phối hợp duy trì 241 Tổ đoàn kết khai thác hải sản trên biển với 2.150 tàu, thuyền tham gia cùng chung sức đối phó với thiên tai, giúp nhau bám biển và nhất là tăng cường cảnh giác, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Trải qua 90 năm hình thành và phát triển, được Đảng ta và Bác Hồ lãnh đạo, rèn luyện, Hội Nông dân Việt Nam đã không ngừng vũng mạnh, trưởng thành, có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng nước ta. Hội Nông dân Việt Nam luôn là cầu nối tin cậy giữa Đảng, Nhà nước với giai cấp nông dân; là cơ sở chính trị của xã hội, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nông dân; có nhiều tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về đường lối, chính sách phát triển nông nghiệp, xây dựng giai cấp nông dân và xây dựng nông thôn; tích cực tham gia giám sát, phản biện xã hội; tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Hội đã giáo dục, giác ngộ nông dân về dân tộc và giai cấp, đoàn kết tập hợp được nông dân lao động và động viên được đông đảo nông dân thực hiện đường lối, chính sách và nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và của Hội trong kháng chiến cứu nước trước đây cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày nay. Qua thực tiễn đấu tranh, tổ chức Hội ngày một trưởng thành, vị trí của Hội được nâng cao, ảnh hưởng và uy tín của Hội được phát huy sâu rộng trong nhân dân.
Tự hào về sự vĩ đại của Đảng ta trong chặng đường 90 năm qua, chúng ta càng tự hào về Đảng bộ tỉnh Bình Thuận, thì các cấp Hội Nông dân trong tỉnh cần tăng cường hơn nữa việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức lối sống cho hội viên, nông dân; tiếp tục khơi dậy và phát huy tinh thần đoàn kết, năng động, sáng tạo của giai cấp nông dân trong phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng an ninh; phối hợp chăm lo giải quyết nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của hội viên, nông dân; không ngừng nâng cao chất lượng các phong trào thi đua, tạo điều kiện để nông dân đóng góp sức sáng tạo, vai trò chủ thể xây dựng nông thôn mới; tập trung xây dựng và củng cố tổ chức Hội Nông dân, trong đó chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, dự nguồn cán bộ Hội; tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và khối đại đoàn kết toàn dân tộc góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của tỉnh Đảng bộ, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.